THÍNH LỰC – TỔNG QUÁT KIẾN THỨC

nghe kém

1. ĐẠI CƯƠNG VỀ THÍNH GIÁCTHÍNH LỰC - TỔNG QUÁT KIẾN THỨC

Thính giác của người bình thường không hoàn toàn giống nhau. Chỉ số bình quân đo sức nghe ở những thanh niên không bị bệnh tai mũi họng là chuẩn mực cho ngươì bình thường.

Vùng nghe được của tai người ở dải 16 – 20.000 Hz (Hertz) và mỗi tần số có ngưỡng nghe tối thiểu và tối đa. Trên biểu đồ (Hình 1) ta có vùng nghe (thính trường) của ngươì bình thường. So sánh với thính giác của một số loài vật thì thính giác người còn thua kém. Ví dụ dơi, chuột, mèo nghe được tần số 60.000 Hz, có loài dơi nghe được 100.000 Hz.

Tiếng nói con người nằm trong vùng nhạy cảm nhất của trường nghe, khoảng tần số 250 – 4.000 Hz, tối đa ở vùng tần số 1000 – 2000 Hz. Về cường độ, tiếng nói thông thường nằm trong khoảng 30 – 70 dB (nói nhỏ: 30 – 35 dB, nói vừa 55 dB, nói to 70 dB).

Vì vậy những sự giảm sút thính giác trong vùng tiếng nói được nhiều người chú ý và biết đến, người ta ít quan tâm hơn đến sự giảm sút thính giác ở các vùng khác. Các máy đo sức nghe thông thường chỉ đo các tần số 125 – 8000 Hz.

Về cường độ, những sự giảm sút sức nghe 30 dB mới được chú ý. Vì vậy nhiều người bị giảm sút 25 dB không hề cảm thấy khó khăn gì trong đời sống, một lúc nào đó bị “cảm, cúm” sức nghe giảm thêm 5 dB, bỗng nhiên mới biết mình nghe kém. Nếu có người hoàn toàn không nghe được tần số 8000Hz trở lên thì điều đó không ảnh hưởng gì lớn trong cuộc sống. Khi đánh giá mức độ điếc cũng không được tính đến. Nói cách khác người điếc hoàn toàn tần số 8000 Hz thông thường không gọi là điếc (đối chiếu trở lại phần định nghĩa phổ thông và định nghĩa y tế).

2. BỘ MÁY THÍNH GIÁC BAO GỒMTHÍNH LỰC - TỔNG QUÁT KIẾN THỨC

TAI NGOÀI: làm nhiệm vụ thu nhận và hướng dẫn âm thanh.

TAI GIỮA: hòm nhĩ các xương con và các phần phụ thuộc làm nhiệm vụ truyền dẫn âm thanh và biến đổi năng lượng âm để bù trừ vào chỗ hao hụt ở phần sau.

TAI TRONG: cơ quan corti với các tế bào giác quan và dây thần kinh thính giác làm nhiệm vụ tiếp nhận âm thanh và truyền lên não qua 5 chặng neuron. Mỗi kích thích âm thanh nghe được từ 1 tai được truyền lên cả 2 bán cầu đại não.

Ở tai trong, âm thanh được truyền từ môi trương không khí, qua môi trường nước (nội, ngoại dịch) đã mất đi 99,9% năng lượng, chỉ có 1% năng lượng được truyền đi tính ra cường độ giảm mất 30 dB. Nhưng do hệ màng nhĩ – chuỗi xương con ở tai giữa đã tác động như một máy biến thế nên đã bù trừ vào chỗ mất mát đó. Kết quả người ta vẫn nghe được đúng với cường độ thực ở bên ngoài.

Tai giữa làm nhiệm vụ dẫn truyền âm thanh, bệnh tật ở bộ phận này gây ra nghe kém dẫn truyền, sự giảm sút thính giác không bao giờ quá 60 dB. Nhiều loại nghe kém này có thể chữa khỏi, kể cả bằng phương pháp phẫu thuật.

Tai trong là bộ phận giác quan – thần kinh,  thương tổn bệnh tật ở bộ phận này có thể gây ra điếc nặng, thậm chí có thể điếc đặc, điếc hoàn toàn. Nghe kém tai trong là điếc tiếp nhận.

Trong thực tế nhiều trường hợp có cả thương tổn ở tai giữa và tai trong, sẽ gây ra nghe kém hỗn hợp nghĩa là vừa có tính chất dẫn truyền vừa có tính chất tiếp nhận. Tuỳ theo mức độ thiên về phía nào mà có nói điếc hỗn hợp thiên về dẫn truyền hoặc thiên về tiếp nhận.

PHƯƠNG PHÁP ĐO SỨC NGHE.

Đo sức nghe đơn giản.

Dùng âm thoa 128 (dao động 128 chu kỳ/giây) gõ vào lòng bàn tay và làm 3 nghiệm pháp dưới đây:

Nghiệm pháp Schwbach: Ngay sau khi gõ đặt chân âm thoa vào xương chũm, nghe đường xương, bình thường nghe được 20 giây.

Nghiệm pháp Rinne: sau khi làm nghiệm pháp Schwbach xong, tai không còn nghe nữa ta đặt âm thoa trước cửa ống tai (nghe đường khí). Nếu tai bình thường thì lại vẫn nghe, gọi là Rinne (+). Ngược lại, nếu để trước ống tai (đường khí) không còn nghe, đặt vào xương chũm (đường xương) lại nghe, gọi là Rinne (-).

Tóm lại: Rinne (+): đường khí > đường xương

Rinne (-):  đường khí < đường xương.

Nghiệm pháp Weber: đặt chân âm thoa ở giữa đỉnh đầu hoặc giữa trán, hỏi xem bệnh nhân nghe bên nào rõ hơn. Kết quả:

Hai bên nghe ngang nhau: Weber cân bằng.

Bên trái nghe rõ hơn: Weber truyền sang trái.

Bên phải nghe rõ hơn: Weber truyền sang phải.

KẾT QUẢ

 

Trường hợp điếc hỗn hợp: dùng thêm các âm thoa 64, 256, 512, 1024, 2048, 4096 sẽ thấy đối với âm thoa này (ví dụ âm trầm) thì có tính dẫn truyền, đối với các loại khác (ví dụ âm cao) thì lại có tính tiếp nhận.

DÙNG TIẾNG NÓI: Nơi thử phải yên tĩnh không có tiếng ồn, người bệnh nghễnh ngãng tai để thử về phía thầy thuốc và bịt tai kia lại. Lúc đầu đứng xa 5m tiến dần về phía thầy thuốc đến lúc nghe được và lặp lại đúng câu nói của thầy thuốc. Ghi khoảng cách. Bình thường:

Nói thầm: nghe được xa 5m

Nói thường: nghe được xa 50m

Dùng để thử cho người điếc nặng, nói thường cách 1m không nghe, chắc chắn có nhân tố tiếp nhận.

Có thể dùng bảng Magnier sau đây để ước lượng so sánh kết quả đo bằng tiếng nói thường và sự giảm sút sức nghe tính bằng dB.

DÙNG MÁY ĐO SỨC NGHE (audiometer-thính lực kế). Máy thông thường phát ra các âm có tần số 125, 250, 500, 1000, 2000, 4000, 8000 Hz và có thể các tần số trung gian 3000, 6000 Hz, ở các mức cường độ 0 – 100 dB

Máy đo sự giảm sút sức nghe so với người bình thường, 0dB là cường độ tối thiểu để người bình thường bắt đầu nghe được (xem mục 2) Máy đo từng mức 5dB Trên máy có ghi cường độ – 20dB – 10dB đo cho những người nghe tốt hơn mức bình thường. Giảm sức nghe càng nhiều, số đo càng lớn. Đo đường xương bằng khối rung, kết quả phản ánh dự trữ ốc tai, tiềm năng sức nghe.

Đo lần lượt từng tai, kết quả ghi trên biểu đồ sức nghe bằng ký hiệu:

 

Đường khí                          Đường xương

Tai phải:                        0 (màu xanh)                                [  <

Tai trái  :                              x ( màu đỏ)                             ]   >

CÁC NGHIỆM PHÁP ĐO TRÊN NGƯỠNG.

Có những người mức độ giảm sút sức nghe tương đương nhau, biểu đồ đo bằng âm đơn gần giống nhau nhưng trong thực tế đời sống hàng ngày, người nghe tốt hơn, người nghe kém hơn nhiều. Lý do nghe kém là vì có thêm rối loạn trên ngưỡng như nghe đôi, thời gian lưu âm kéo dài và hồi thính. Về phương diện bệnh lý lâm sàng, hiện tượng hồi thính có tầm quan trọng hơn cả. hồi thính là hiện tượng đặc biệt biểu hiện thương tổn ở ốc tai. Ngưỡng nghe của những người này giảm sút so với ngưỡng bình thường nhưng với âm thanh có cường độ cao đến mức nào đó thì nghe như người bình thường, thực chất là như người bình thường đối với chênh lệch rất nhỏ về cường độ. Biểu hiện: nói nhỏ thì không nghe, nói hơi to thì chói tai, khó nghe. Kết quả là nghe chữ được, chữ mất, câu được, câu chăng. Có nhiều phương pháp đo hồi thính như sau.

– Test Fowler: so sánh cảm giác cường độ ngang nhau của 2 tai

– Test Luscher – Zwislocki: nhận biết các biến đổi nhỏ nhất về cường độ.

– Test SISI của Jerger tìm chỉ số nhạy cảm với biến đổi cường độ…(SISI = sound intensity shift index, short increment sensitivity index)

Một vài hiện tượng trong các cách đo khác cũng có giá trị tương đương hồi thính.

Ngoài ra còn nói đến cách đo sự suy giảm ngưỡng nghe biểu hiện thương tổn sau ốc tai.

ĐO SỨC NGHE KHÁCH QUAN: Sau đây chỉ nói một vài phương pháp:

ĐO TRỞ KHÁNG

Có hai ứng dụng trên lâm sàng.

Nhĩ đồ: bình thường biểu hiện như một hình nón không cân xứng, đáy loe, đỉnh trùng với áp  xuất bằng 0. Khi có dịch tiết hay nhầy trong hòm nhĩ, vòi nhĩ bị tắc một phần hay tắc hòan toàn… Nhĩ đồ có hình ảnh bệnh lí đặc biệt.

Phản xạ cơ bàn đạp: trường hợp bình thường và điếc dẫn truyền đơn thuần, ngưỡng phản xạ cách ngưỡng nghe khoảng 85dB. Khi có hồi thính , ngưỡng này thu hẹp lại . Đo phản xạ có thể phát hiện nhiều trường hợp điếc trả vờ.

 

 

ĐO ĐIỆN ỐC TAI VÀ ĐIỆN NÃO THÍNH GIÁC

Nguyên lí: Khi nghe một âm thanh cũng giống như thu nhận một kích thích, một cảm giác khác , điện não có biến đổi nhưng sự biến đổi đó quá nhỏ bị lẫn vào trong biểu đồ ghi điện não tổng hợp nhiều quá trình hoạt động của não. Nếu ta phát những âm thanh (clic hoặc burst) liên tục và ghi dòng điện não (bằng cách đặc biệt phân tích dòng này thành nhiều điểm, dùng máy tính điện tử ghi tổng số ở từng điểm sau mỗi lần phát âm ra) sẽ cho thấy đáp ứng của não đối với âm thanh  nếu tai nghe được. Tuỳ theo vị trí đặt cực ta có.

– Đo điện ốc tai: điện cực đặt ở đáy hòm nhĩ hoặc ống tai.

– Điện não thính giác: điện cực đặt ở vùng trán, đỉnh đầu và xương chũm.

PHÂN CHIA CÁC LOẠI NGHE KÉMTHÍNH LỰC - TỔNG QUÁT KIẾN THỨC

Ngày nay nghành thính học đã phát triển mạnh mẽ, việc đo sức nghe, chẩn đoán điếc đã có nhiều tiến bộ với các máy móc hiện đại có thể giúp được thầy thuốc chẩn đoán chính xác vùng bị tổn thương và mức độ tổn thương.

Vùng bị tổn thương: Nghe kém dẫn truyền, tiếp nhận hay hỗn hợp.

Mức độ nghe kém:

– Dựa vào biểu đồ đo sức nghe bằng đơn âm có thể đánh giá ước lượng.

– Theo công thức Fletcher – Carhart: cộng mức suy giảm thính lực đường khí ở 3 tần số 500, 1000, 2000 rồi chia làm 3.

Ví dụ: biểu đồ hình giảm sut:

sức nghe= (50+60+70)/3 = 60dB

– Hoặc tính theo barem của Hội đồng vật lí trị liệu

(Council of physical Therapy 2o formule)

 

đánh giá sự giảm sut thính giác toàn bộ tức là cả hai tai có thể tính: lấy tổng số 7 lần sự giảm sút bên tai tốt cộng với một lần sự giảm sút bên tai xấu, chia 8. Ví dụ: một tai 100%, một tai 0% thì sự giảm sut toàn bộ là 13%.

Phân hạng các loại Mất Thính Lực

– sức nghe bình thường:  0-20 dB

– Mất thính lực mức độ nhẹ:  20-40 dB

-Mất thính lực mức độ trung bình:  40-70 dB

– Mất thính lực mức độ nặng:  70 -90 dB

-Mất thính lực mức độ sâu:  90-120 dB

NGUYÊN NHÂN CÁC LOẠI NGHE KÉM

Như đã nêu ở trên, nghe kém gồm 3 kiểu:

Dẫn truyền, tiếp nhận và hỗn hợp. Nhiều bệnh khác nhau có thể gây ra một loại điếc giống nhau. Một bệnh có thể gây ra nhiều kiểu điếc khác nhau. Vì vậy riêng việc đo sức nghe không đủ để chẩn đoán bệnh, cần kết hợp các loại thăm khám khác .

Bệnh của tai ngoài.

Nhiều bệnh của tai ngoài có thể gây ra giảm sút sức nghe, sau đây chỉ nêu vài trường hợp.

Nút ráy tai và dị vật tai gây ra giảm sức nghe khi bịt kín ống tai. Ví dụ một nút ráy tai gây ra nghe kém nhưng lúc đi tắm, nước vào tai làm dãn nở nút ráy, bịt kín ống tai, triệu chứng nghe kém trở nên rõ rệt. Đây là trường hợp điếc dẫn truyền kiểu đơn thuần.

Dị dạng: Nếu dị dạng chỉ khu trú ở tai ngoài (vành tai nhỏ, tịt ống tai ngoài) hoặc có thêm hoặc chỉ có dị dạng tai giữa (các kiểu dị dạng của chuỗi xương con) điếc dẫn truyền đơn thuần. Nếu kèm thêm dị dạng tai trong: điếc hỗn hợp.

Tắc vòi nhĩ.

Tắc vòi nhĩ xảy ra ở hòm nhĩ, phía họng hoặc ở eo vòi. Lúc đầu là hiện tượng tắc vòi đơn thuần (có thể từ tắc một phần tiến tới tắc hoàn toàn), áp lực khí ở hòm nhĩ sẽ giảm sút màng nhĩ bị kéo lõm vào trong và sẽ nhanh chóng xẩy ra tiết dịch nước, nhầy, cuối cùng là giảm áp lực thường xuyên, có thể dẫn tới quá trình dính, xẹp hòm nhĩ.

Giai đoạn tắc vòi đơn thuần: điếc dẫn truyền đơn thuần nhất thời. Khi vòi nhĩ thông trở lại thì thính giác trở về bình thường.

Giai đoạn có tiết dịch: là sự kéo dài của giai đoạn trước. Áp lực tâm và dịch tiết ở hòm nhĩ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các cửa sổ hoặc do các hiện tượng vận mạch phản xạ của tai trong nên điếc nhiều khi biểu hiện tính chất hỗn hợp. điều trị nguyên nhân và đặt ống thông hơi hòm nhĩ thường dẫn tới kết quả phục hồi nguyên trạng, dù đã có biểu hiện sự tham gia của tai trong.

Giai đoạn xơ dính: chất dịch nhầy quánh lại, biến thành xơ dính, hòm nhĩ xẹp. Điếc thường có tính chất hỗn hợp, rất khó hồi phục.

Viêm tai giữa:

Bao gồm viêm tai giữa cấp tính.

Gồm có nghe kém dẫn truyền đơn thuần.

Trường hợp có phản ứng mê nhĩ thì biểu hiện điếc hỗn hợp.

Viêm tai giữa mãn tính chia ra làm 2 loại: đơn giản và loại có cholesteatoma

Nếu mê nhĩ không bị thương tổn thì chỉ bị điếc dẫn truyền đơn thuần. Trường hợp mê nhĩ bị thương tổn do viêm tai giữa cấp hoại tử, do cholesteatoma…điếc mang tính hỗn hợp, có thể có hồi thính. Do bệnh tích giải phẫu rất đa dạng (lỗ thủng màng nhĩ to nhỏ, vị trí khác nhau, chuỗi xương con có bị đứt đoạn hay không, mặt đế đạp có bị cứng khớp do cac quá trình xơ viêm, mức độ thương tổn của mê nhĩ, tuổi tác…biểu hiện lâm sàng rất phong phú và các biểu hiện về mức độ điếc cũng muôn màu muôn vẻ.

Loạn dưỡng mê nhĩ:

Bao gồm nhiều bệnh khác nhau, đều gây ra rối loạn cấu trúc xương của mê nhĩ và cứng khớp bàn đạp – cửa sổ bầu dục. Đó là những bệnh toàn thể như bệnh Paget, Recklinghausen, Lobstein, Crouzon, hurler…có kèm theo loạn dưỡng xương và biểu hiện lâm sàng về tai. Hoặc là bệnh của riêng mê nhĩ như bệnh xốp xơ tai. Loạn dưỡng xương xảy ra ở mê nhĩ, nhưng triệu chứng lâm sàng chỉ biểu hiện khi bệnh tích lan đến vùng cửa sổ bầu dục làm cứng khớp xương bàn đạp.

Bệnh thường gặp từ tuổi dậy thì con gái, có tính di truyền từ người mẹ, điếc lúc đầu thường là dẫn truyền đơn thuần, cả hai tai đều bị, có thể sớm muộn nặng nhẹ hơn nhau tí chút, hoặc tương đương, điếc tiến triển nặng dần lên với đời sống sinh lý của người phụ nữ như khi mang thai, sinh con, cho con bú, đoạn kinh…trở thành điếc hỗn hợp và có thể là điếc đặc hoàn toàn. Nhưng cũng nhiều khi ngừng tiến triển, ở một mức độ nào đó, thậm chí tốt lên (hiếm).Nhiều bệnh nhân có bàng thính Willis: nghe rõ hơn ở chỗ có tiếng ồn, thường là tiếng ồn trầm. Điếc kèm theo ù tai rất khó chịu. Thăm khám soi tai không có gì đặc biệt

Điều trị: phẫu thuật xương bàn đạp, lay động hoặc thay thế, ở giai đoạn Renne âm tính thường có kết quả tốt. Ngoài ra có thể đeo máy trợ nghe, uống fluorua natri (ít người chỉ định)

Nghe kém tuổi già

 một hiện tượng sinh lý không ai tránh khỏi. Cũng như các bộ phận khác, nặng nhẹ, sớm muộn thay đổi tuỳ người. Nhưng nếu xảy ra quá sớm thì trở thành bệnh lý.

Sự lão hoá của bộ máy thính giác là do sự thoái hoá tế bào cơ quan Corti, bắt đầu từ vòng đáy lên vòng đỉnh, đồng thời các sợi hạch và đường dẫn truyền thần kinh cũng teo đi.

Là điếc tiếp nhận đơn thuần, không kèm theo chóng mặt, nếu có ù tai thì cũng nhẹ. Hiện tượng suy giảm thính giác đã bắt đầu 20 – 30 tuổi nhưng có thể gây phiền hà, khó chịu từ tuổi 50 trở đi.

Theo một số nghiên cứu thống kê, sự giảm sút bình quân ở các tần số theo lứa tuổi như sau

 

Sòng n­íc mª nhÜ (chãng mÆt meniere).

Tức là những thay đổi đột ngột có tính chu kỳ của áp lực nước nội dịch.

Nước nội dịch được sản sinh ra chủ yếu từ màng mạch của ốc tai và tiêu thoát phần lớn từ túi nôị dịch. Mọi nguyên nhân làm tiêu thoát hoặc ngưng trệ sự tiêu thoát (dãn mạch, co mạch, cao huyết áp, xơ vữa động mạch, rối loạn nội tiết làm thay đổi áp lực thẩm thấu, chuyển hoá nước, protit, uối khoáng, dị ứng …) đều có thể gây ra sũng nước mê nhĩ. Biểu hiện lâm sàng nằm trong bối cảnh của một bệnh toàn thể hoặc riwng rẽ gồm có 3 triệu chứng:

Chóng mặt, cảm giác thấyđồ vật, nhà cửa, cây cối quay vòng, người cảm thấy bấp bênh chao đảo. Đó là một ảo giác kèm theo nôn và buồn nôn.

Ù tai, thường khi cao như tiếng “dế” tiếng rít.

Nghe kém  cảm giác như bị đút nút, đầy đầy.

Ngoài cơn các triệu chứng biến mất, về sau cơn tái phát ngày càng nhanh hơn, cơn nặng hơn. Điếc cũng trở nên rõ rệt và không thuyên giảm.

Loại hình kiểu điếc tiếp nhận đơn thuần. Trên thính lực đồ giảm sút ở hầu hết các tần số, có hồi thính, nghe đôi và thời gian lưu âm kéo dài, vì vậy khi nói to hoặc có tiếng động lớn ở mức nào đó thì nghe chói tai, khó chịu. Về sau điếc ngày càng nặng hơn.

Điếc do chấn thương

Điếc do thay đổi áp lực không khí:

Đối với phi công: khi máy bay lên cao, nhất là khi hạ xuống nhanh. Áp lực giữa trong hòm nhĩ và ngoài màng nhĩ chênh lệch nhau do đo xẩy ra hiện tượng tắc vòi, đặcbiệt ở những người có tiền sử viêm mũi họng, có thể dẫn tới tiết dịch và viêm tai giữa. Điếc trong trường hợp này biểu hiện giống trường hợp tắc vòi nhĩ.

Đối với thợ lặn: khi đưa xuống sâu quá nhanh hoặc giảm áp đột ngột khi đưa lên có thể gây ra điếc nặng. Điếc trong trường hợp này biểu hiện giống trường hợp cơn chóng mặt Meniere. Có thể xảy ra hai hiện tượng sau:

–         Sự giảm áp đột ngột tác động vào hòm nhĩ và các cửa sổ là rối loạn áp lức chất dịch và mạch máu mê nhĩ, phản ứng tạo ra sũng nước nội dịch.

–         Sự giảm áp đột ngột có thể tạo ra trong động mạch  mê nhĩ cũng như trong các cơ quan khác hiện tượng nghẽn mạch do khí.

Điếc do sức ép: khi có một vụ nổ, áp lực không khí thây đổi đột ngột và chấn thương âm thanh gây ra điếc.

Điếc do chấn thương âm thanh

Là sự giảm sút thính giác vĩnh viễn do sự tiếp xúc với âm thanh gây ra, có thể âm thanh cường độ mạnh trong thời gian ngắn (tiếng súng, tiếng bom, tiếng mìn, tiếng sét lúc nghe điện thoại …) hoặc tác động của cường độ âm thanh lớn liên tục hoặc cắt quãng trong thời gian dài (trong các nhà máy, động cơ phản lực…).  thường được gọi là điếc nghề nghiệp. Sự giảm sút thính lực phụ thuộc vào từng cá thể, cường độ , thời gian , nhịp độ tiếp xúc với tiéng ồn. Sự giảm sút thính lực này thường bắt đầu từ tần số 4000 Hz tức là giữa vòng xoắn ốc của người. Nói chung tiếng ồn có tần số cao có hại hơn tiếng ồn có tần số trầm. Dần dần Sự giảm sút thính lực mở rộng ra các tần số khác, tức là thương tổn lan rộng ra các vòng xoắn ốc khác, cuối cùng có thể toàn bộ ốctai bị thương tổn, nhất là tiếng động mạnh, tiếp xúc lâu dài.

Điếc do chấn thương sọ não

Có thể chia là 2 loại:

Chấn thương sọ não có vỡ xương đá.

Chấn thương sọ não không có vỡ xương đá.

Vỡ xương đá bao gồm :

– Vỡ hòm nhĩ và mê nhĩ thương tổn cả tai giữa và tai trong gây ra điếc nặng.

– Vỡ hòm nhĩ ngoài  mê nhĩ thương tổn chỉ khu trú  tai giữa gây ra điếc kiểu dẫn truyền.

Chấn thương sọ não không có vỡ xương đá.

Có thể gây điếc dẫn truyền do trật khớp búa đe hoặc mảnh xương trần hòm nhĩ bị biến dạng là lệch chuỗi xương con. Ngoài  ra chấn động não cũng gây ra giảm sút thính lực ở trung ương.

Nghe kém do nhiễm độc

Dây thần kinh số VIII và cơ quan Corti rất nhạy cảm với các loại nhiễm độc khác nhau: CO, thạch tín, thuốc lá…  Các loại thuốc như salicylate, đặc biệt là quinine các kháng sinh nhóm aminozit như streptomycine, kanamycine, gentamycine…

Điếc có thể xảy ra có cá thể bị nhiễm độc, liều lượng cao, sử dụng thời gian kéo dài. Thường là điếc cả hai tai, điếc tiếp nhận đơn thuần, các tần số cao bị trước rồi đến tần số trầm, có hồi thính.

Nghe kém do nhiễm khuẩn hoặc nhiễm virút

Rất hay gặp, xảy ra trong hoặc sau khi bị các loại bệnh nhiễm khuẩn như: thương hàn, các loại sốt phát ban, cúm, zona, giang mai, viêm màng não tuỷ… Nhiều khi phát hiện ra di chứng điếc thì giai  đoạn nhiễm khuẩn đã bị bỏ qua, gia đình và cá nhân không còn nhớ nữa. Nói chung các loại bệnh này gây tổn thương dây thần kinh thính giác và các sợi tận cùng thần kinh ở ốc tai, tức là viêm dây thần kinh số VIII cùng với viêm màng não và viêm mê nhĩ . Thường là điếc tiếp nhận kiẻu ốc tai hoặc là rễ thần kinh.

Nghe kém do giang mai

Ngày nay nhờ kháng sinh diều trị có hiệu quả nên giang mai tai rất hiếm.

Điếc do giang mai có các dạng: viêm mê nhĩ, xốp xơ tai tức là viêm dây thần kinh số VIII cùng với viêm màng não và viêm mê nhĩ. Thường là điếc tiếp nhận do viêm dây thần kinh số VIII, viêm mê nhĩ hoặc viêm màng não và viêm dây thần kinh.

Nghe kém do u vùng rễ

Bao gồm các loại điếc do, u chèn ép rễ dây số VIII ở phần ống tai trong hoặc ở góc cầu tiểu não, u dây thân kinh số VIII.

U dây thân kinh số VIII phát triển qua 3 giai đoạn.

Giai đoạn I khởi phát: u xuất phát từ dây tiền đình vùng ống tai trong, là u bao Schwann thường một bên.

Trừ trường hợp bệnh Recklinghausen là bệnh u xơ thần kinh ở hai bên tai, triệu chứng báo hiệu là điếc, ù tai, chóng mặt, mất thăng bằng, ngoài ra có thể kèm theo đau tai, nặng đầu tê bì ống tai ngoài.

Điếc  kiểu tiếp nhận, tuần tiến một bên, chủ yếu là tần số cao. Không có hồi thính, thoái hoá ngưỡng nghe và thoái hoá phản xạ cơ bàn đạp, chứng tỏ thính giác mệt mỏi nhanh chóng (nghiệm pháp Ton decay test – TDT- Carhart  và reflex decay test của Anderrson).

Thăm khám tiền đình và ghi động mắt: cho thấy tiền đình bên bệnh thường giảm và mất kích thích.

Thăm khám dây thần kinh số VII có thể thấy giảm phản ứng: (cảm giác vùng Ramtsay Hunt. đo điện vị giác, nghiệm pháp tiết nước mắt Schirmer…).

Thăm khám XQ là yếu tố quyết định chẩn đoán (chụp cộng hưởng từ).

Chẩn đoán sớm phát hiện khối u còn nằm trong ống tai trong có thể giải quyết bằng phẫu thuật với tỉ lệ tử vong thấp, rối loạn thính giác và dây 7 có thể hồi phục.

Giai đoạn II (giai đoạn tai thần kinh)

Lúc này khối u đã thòi ra ngoài ống tai trong, choán góc cầu tiểu não, chạm nhưng chưa chèn ép thân não.

Dây thần kinh tam thoa (số V) đã biểu hiện triệu chứng sớm (giảm cảm giác giác mạc, giảm cảm giác hốc mũi), dây thần kinh số IX, X, XI bị chèn ép. Hội chứng tiểu não: rôí tầm, mất liên động, động mắt đa hướng…

Giai đoạn tăng áp lực trong sọ, bệnh cảnh rất nặng, điều trị bằng phẫu thuật ở các giai đoạn sau có nhiều tai biến, tỉ lệ tử vong cao hơn và kết quả bị hạn chế.

Ngoài ra ở góc cầu tiểu não còn có một số khối u khác phần nhiều chỉ đước chẩn đoán xác định trong khi phẫu thuật theo thứ tự thường gặp là: u màng não, cholesteatoma, u các dây thần kinh khác, u mạng nhện, phình mạch, u vòm họng phát triển và trong sọ.

Nghe kém do tổn thương trung ương

Gồm 2 loại: Thương tổn ở  thân não (hành tuỷ, cầu não, não giữa) như xuất huyết, tắc mạch, u, nhiễm khuẩn và xơ cứng rải rác. Thương tổn nhỏ ở vùng này cũng có thể ảnh hưởng nhỏ đến nhiều vùng của đường thính giác. Thương tổn ở vỏ não như viêm não, viêm màng não, chấn thương, xuất huyết, tắc mạch, u, bệnh tâm thần, tuổi già, thiếu máu và bệnh thận.

Điếc do tổn thương trung ương biểu hiện ở chỗ nghe mà không hiểu ý nghĩa của từ hoặc của câu nói. Vì vậy đo sức nghe đơn âm thì khá tốt nhưng đo sức nghe tiếng nói (thính lực lời) thì giảm nhiều. Dùng các nghiệm pháp đo sức nghe tiếng nói đặc biệt (lọc cao, lọc thấp, nhanh, chậm, chuyển đổi giảm hoán cộng gộp) dùng âm vị…cho thấy sức nghe – hiểu giảm nhiều. Tuy nhiên chẩn đoán dựa vào triệu chứng thần kinh của bệnh chính.

Nghe kém trẻ em

Điêc có thể đem lại những hậu quả nặng nề cho trẻ em, trước hết là đối với việc luyện tập tiếng nói, sau là thay đổi tính nết.

Điếc càng nặng và xảy ra càng sớm thì hậu quả càng nghiêm trọng. Vì vậy điếc trẻ em có nhiều mức độ khác nhau. Tuy vậy các hậu quả sẽ được giảm nhẹ nếu phát hiện bệnh sớm và có các biện pháp phục hồi chớc năng sớm ( = can thiệp sớm: early intervention).

Để hiểu biết bệnh tật điếc ở trẻ em cần hiểu biết sự phát triển thính giác và sự hình thành ngôn ngữ ở trẻ.

Sự hình thành phát triển giải phẫu ở tai: đã hoàn chỉnh từ tháng thứ 6 của bào thai. Nhưng chức năng về thính giác chưa phát triển hoàn tất từ lúc trẻ mới sinh ra. Lúc đó trẻ chỉ mới phản ứng với các tiếng động đột ngột và mạnh vào khoảng 70 dB.

Thời kỳ sơ sinh, phản ứng của trẻ đối với các kích thích âm thanh có tính phản xạ như co cơ toàn bộ hoặc khư trú chỉ ở đầu hoặc một chi, phản xạ Moro (duỗi cả 4 chân tay), chớp mi thay đổi nhịp thở, đầu từ từ quay vè phía nguồn âm, không có phản ứng biệt hoá đối với kích thích âm. Tuy vậy ở lứa tuổi sơ sinh vẫn có thể đáp ứng tốt với điện ốc tai cho các ngưỡng nghe tương tự như với trẻ lớn .

Trẻ đẻ non, sức khoẻ tốt, cũng đáp ứng như trẻ đủ tháng nhưng với cường độ cao hơn, sau vài tuần thì giống nhau hẳn.

Trẻ mới đẻ hoặc được vài tuần có thể không có phản ứng gì trước các kích thích âm mặc dù bộ máy thính giác hoàn toàn bình thường.

Sự nhận biết âm thanh xuất hiện dần dần vào khoảng 4-5 tháng tuổi: Trẻ biết định hướng nơi phát ra âm thanh và nhận biết một vài thứ tiếng như tiếng nói của mẹ , tiếng thìa bát va chạm (sắp sửa ăn)… Cứ như vậy sự nhận biết thính giác còn thô sơ sau càng trở nên tinh tế hơn. Sau đó trẻ còn nhận biết được cả âm điệu và nhịp điệu.

Tuy nhiên không để dùng âm thanh để đo thính giác trẻ trước 6 tháng tuổi. Các phản xạ của trẻ sơ sinh đối với âm thanh 70-80 dB biến mất nhanh chóng sau một vài tuần và sau này muốn xác định sức nghe cần khám khách quan mới có kết quả.

Dù nghe bình thường hay điếc hoàn toàn vào độ tuổi 3-4 tháng, trẻ vẫn phát ra các âm bập bẹ. Trẻ có thính giác bình thường phát ra những âm ngẫu nhiên và rồi dần dần theo khuôn mẫu các âm phát ra từ các người xung quanh. sau nhiều lần, tập dượt , nói theo dần dần lặp lại những từ dễ nhất đã nghe được. Ngôn ngữ đã hình thành theo chu trình nghe-phát âm.

Trẻ điếc nặng không nghe được các âm tự mình phát ra và không thâm nhập vào thế giới âm thanh quanh mình. Trong vài tháng, tiếng bập bẹ nghèo dần rồi mất hẳn. Nếu trẻ điếc im lặng trong thời gian dài thì sau đó khó mà làm cho cháu phát âm trở lại. Vì vậy trong những nhiệm vụ phục hồi chức năng sớm là duy trì và khuyến khích trẻ phát âm từ lúc còn rất nhỏ.

Nói chung khả năng hình thành ngôn ngữ càng tốt nếu trẻ càng nhỏ tuổi: Để qua đi nhữnh năm đầu, khả năng này giảm sút nhiều. Đợi đến 4 – 5 tuổi mới dạy nói cho trẻ điếc nặng thì không bao giờ có được giọng nói chuẩn. Điếc nặng không những có hậu quả xấu đối với tiếng nói mà còn ange hưởng nhiều đến tâm lý, tình cảm của trẻ.

Trẻ điếc nặng ngăn cách với thế giới bên ngoài vì không nghe được và nói được. Do thiếu giao tiếp trẻ bị cô lập với ngoại giới và sẽ dẫn tới những rối loạn về tâm lý, kiến thức nghèo nàn với thế giới bên ngoài, tách rời mối quan hệ xã hội.

Trẻ điếc bồn chồn lo lắng, khổ sở trước các tình huống bất ngờ, không được chuẩn bị, không hiểu được ý nghĩ của người khác, và cũng không bộc lộ được ý muốn của bản thân. Từ đó mỗi trẻ phản ứng một cách khác nhau: cáu kỉnh, gây gổ hay lãnh đạm thờ ơ, tính khí thất thường. Tình hình còn nặng nề thêm do cách xử sự của gia đình: quá thương cảm nuông chiều hay ghét bỏ, lạnh nhạt. Hậu quả nghiêm trọng nhiều ít tuỳ thuộc trước hết vào mức độ điếc. Tất nhiên là có nhiều nhân tố khác tham gia vào làm cho hậu quả giảm nhẹ hoặc tăng thêm.

Người ta đã đề xuất cách phân loại điếc. Đây chủ yếu nói về mức độ điếc toàn bộ, tính gộp cả 2 tai, thông thường 2 tai giảm sút thính giác ngang nhau (nếu 1 tai điếc hoàn toàn và 1 tai tốt bình thường thì sức nghe toàn bộ giảm sút không đáng kể – chỉ khoảng 13% – không ảnh hưởng gì đến sự phát triển tiếng nói và tính nết của trẻ).

Có thể sử dụng cách phân loại sau đây:

+ Mất thính lực mức độ nhẹ (trẻ nghễng ngãng): giảm 20 – 40dB, trẻ có thể phát âm không chuẩn nhất là đối với một số phụ âm.

+Mất thính lực mức độ trung bình : giảm 40 – 70dB, trẻ chậm nói và sai giọng, nhầm lẫn nhiều nguyên âm và phụ âm, trẻ cần được đeo máy.

+Mất thính lực mức độ nặng: giảm 70 – 90dB, trẻ chỉ nghe được tiếng nói to, vì vậy nhất thiết phải đeo máy và cần phải luyện giọng chuẩn. Nếu không thì tiếng nói của trẻ sẽ vô tổ chức.

+ Mất thính lực mức độ sâu: giảm trên 90dB, trẻ không nghe được tiếng nói, nếu không được giáo dục trẻ sẽ trở thành câm.

Việc giáo dục phục hồi chức năng cho trẻ điếc phụ thuộc vào  mức độ nghe kém nặng hay nghe kém nhẹ.

Điếc nhẹ và vừa chiếm 3% số trẻ. Có thể là điếc bẩm sinh hay di truyền, nhưng thường gặp hơn cả là điếc mắc phải. Phần lớn trẻ em điếc không được phát hiện trước 2-3 tuổi .

Cần phát hiện những trường hợp chậm nói  hoặc giọng nói sai lạc; tính nết không bình thường, thay đổi về thái độ, tính tình trong lớp học.

Cần khám tai, đo sức nghe, xác định loại điếc và nguyên nhân. Từ đó có hướng điều trị  hoặc cho đeo máy luyện phát âm.

Điếc nặng và sâu chiếm khoảng  1%o trẻ em. Phần lớn là điếc tai trong có thể kèm theo tổn thương phần dẫn truyền. Khi đã phát hiện ra điếc nặng và sâu cần chú ý giải quyết một số vân đề như sau:

Đeo máy trợ thính ở lứa tuổi 1-2 tuổi  cho kết quả tốt nhất. Sử dụng các phần thính giác còn lại , thường là tần số thấp. Trẻ dù điếc nặng vẫn nghe được ở tần số này. tất nhiên đeo máy không giúp cho trẻ nghe được bình thường nhưng cho trẻ một số thông tin thính giác về âm thanh mà ta cần khai thác triệt để. Nếu trẻ đeo máy chậm tức là 3-4 tuổi  thì trẻ đã quen với một thế giới riêng biệt trong đó âm thanh không đóng một vai trò gì , do đó đeo máy chậm thì ích lợi sẽ giảm đi rất nhiều. Đeo máy sớm khuyến khích trẻ lưu tâm tới thế giới âm thanh dù cho trẻ chỉ tiếp nhận dược các mảnh rời rạc, không đầy đủ nhưng thực sự giúp cho việc rèn luyện , phục hồi chức năng thính giác rất nhiều.

Trong những năm sau sinh , cần rèn luyện cho cả mẹ lẫn con

Duy trì phát âm của trẻ trong những tháng tiếp theo, tập cho trẻ lưu ý, nhận thức đựoc thể giới âm thanh ,môi trường âm thanh quanh mình, khai thác các khả năng cảm thụ khác thay thế phụ thêm cho thính giác (thị giác, xúc giác…)

Phát  triển khả năng giao tiếp của trẻ

Phát hiện khả năng đọc hình miệng

Gia đình có vai trò rất to lớn đối với việc rèn luyện trẻ tập nói, học nói.

Thầy thuốc và thấy giáo chuyên nghiệp phải thuyết phục giảng giải cho bố mẹ hiểu về các khía cạnh của điếc, làm cho họ yên lòng có thể phát triển con cái họ một cách bình thường, vượt qua khó khăn của bệnh tật.

Thầy thuốc đa khoa cần biết các nhân tố cơ bản có thể gây ra điếc trong gia đình, trong lúc có thai, lúc đẻ  và trong những năm đầu tiên của trẻ. Biết cách phát hiện sớm trẻ điếc câm và hướng dẫn các vấn đề cần thiết.

NGUYÊN NHÂN GÂY RA NGHE KÉM NẶNG VÀ SÂU CÓ THỂ CHIA THÀNH LÀM NHIỀU LOẠI.

* Di truyền chiếm 20% các trường hợp. Điếc từ khi mới sinh ra ít thay đổi. Thường biểu hiện riêng rẽ nhưng nhiều khi nằm trong bệnh cảnh như sau:

+ Hội chứng Wardenburg: chỏm tóc bạc, hai mống mắt khác màu, vài dị dạng ở mặt.

+Hội chứng Pendred: bưới giáp

+Hội chứng Usher: viêm võng mạc sắc tố tiến triển .

+ Hội chứng Alport: viêm thận

+ Sai lạc thể nhiễm sắc ( do chất độc hoá học, thuốc trừ sâu, hoá chất, có thai lúc lớn tuổi, uống rượu…)

+ Trước khi đẻ mẹ bị bệnh lí phổi (bị bệnh khi mang thai, ví dụ: rubeon) Bệnh lí thai (tương kị máu, chảy máu) khi đẻ ngạt, chấn thương sản khoa, đẻ khó, cặp thai(focxep), đẻ non.

+ Trẻ con bị nhiễm khuẩn (viêm màng não do tai , do virut), nhiễm độc ngoại sinh( streptomycin…) Chấn thương (âm thanh, sọ não) Bệnh do chuyển hoá (nội tiết, nhiễm dộc nội sinh…)

+ Điếc không rõ nguyên nhân chiếm 30%

PHÁT HIỆN RA NGHE KÉM TRẺ EM

Điếc xảy ra vào nhiều thời gian khác nhau của trẻ .Vì vậy  phải luôn luôn chú ý phát hiện và phục hồi chức năng càng sớm càngtốt để tránh hậu quả nặng nề .

Phát hiện từ lúc mới đẻ.

Có thể dùng máy đo sức nghe sách tay phát các âm từ 70-80 dB gây ra các phản ứng  cho phép ước đoán về thính giác.

+ Không có phản ứng thì không có nghĩa là điếc, cần phải theo dõi, và đo thính giác khách quan. Không có điều kiện đo thính giác cho trẻ ở tất cả các nhà hộ sinh, vả lại trẻ có thể đẻ ra bình thường và điếc vào thời gian sau. Vì vậy cần phát hiện ra điếc ở trẻ “có hiều nguy cơ”: do di truyền – mẹ bị bệnh khi mang thai – tai biến khi đẻ – đẻ non – bệnh nặng trong các tuần đàu sau đẻ…

Phát hiện điếc ở lứa tuổi nhỏ: cần hteo dõi về sức nghe ra vào tháng thứ 9 và thứ 24. Phần lớn người mẹ phát hiện con bị điếc, vì vậy trước hết phải hỏi người mẹ về các phản ứng của con với các tiếng động quen thuộc. Có thể dùng các dồ chơi kiểu lúc lắc, còi, trống, thanh la, chũm choẹ, đàn phiến gỗ phát ra các âm thanh trầm bổng khác nhau để thăm dò sức nghe. Cách thử: mẹ bế con và đồ chơi, “người thử” ngồi hơi tụt về sau, cho phát ra một âm thanh lần lượt trầm bổng yếu, mạnh, gần, xa và theo dõi phản ứng của trẻ (ngừng chơi, quay lại…)

Ở vườn trẻ, mẫu giáo, dùng nhiều tranh vẽ các hình quen thuộc,bảo trẻ chỉ, nếu nghe bình thường thì chỉ đúng.

Ở tuổi học sinh, từ lớp 1 trở lên, có thể dùng máy đo sức nghe, máy đo trở kháng do phản xạ cơ bàn đạp, nhĩ đồ, khi cần thì đo sức nghe khách quan.

 

PHƯƠNG PHÁP THEO DÕI SỨC NGHE VÀ PHÁT HIỆN NGHE KÉM Ở TRẺ EM

Với việc tổ chức thăm khám đo thính lực cho tất cả trẻ em theo định kỳ là việc là lí tưởng nhưng thường không thực hiện được. Khuynh hướng hiện nay là khám một cách hệ thống với nhóm trẻ có nguy cơ bị  điếc cao. Mặt khác cần phổ biến cho bố mẹ chú ý tới sự phát triển thính giác và ngôn ngữ phát âm của trẻ để phát hiện sớm trẻ bị điếc  có thể phổ biến

 

 

CÁCH GHI VÀ ĐÁNH GIÁ

+ Trong mỗi lứa tuổi , đọc kỹ các câu hỏi  và ghi (+) hoặc (-) kết quả.

+ Tất cả (+) tốt: trẻ phát triển có sức nghe , tiếng nói ngon ngữ bình thường.

+ Nếu 1-3 (-) thì cẩn thận vì trẻ phát treeenr chậm về nghe nói.

Để giúp cho trẻ phát trển nghe nói bình thường các bậc cha mẹ cần biêt các điều sau:

+ Nói bình thường với trẻ không nói sai từ ( kiểu nói nhịu hoặc nói kiểu trẻ con)

+ Dành thì giờ cho trẻ  và tập cho trẻ tự nói

+ Nếu trẻ nói sai khôngbắt trẻ ngừng nói , lặp lại.

+ Nếu phải nói to hoặc lặp lại nhiều lần , trẻ mới hiểu thì nên đi khám thính giác tại cơ sở TMH

+ Quá 3 (-) nhất thiết phải đi khám TMH và gửi đi lớp đặc biệt.

 

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NGHE KÉM CỦA TRẺ

 

§èi víi trÎ nhá ( d­íi 1 tuæi) dïng ©m c­êng ®é cao ®Ó thö c¸c ph¶n x¹.

+ Phản xạ ốc tai – mi mắt (nhắm mắt)

+ Phản xạ ốc tai –  hệ cơ (co cơ hoặc giật nẩy mình)

+ Phản xạ quay đầu về phía phát ra tiéng ồn

Vận động chậm các chi

+ Thay đổi nhịp mạch, nhịp thở

+ Thay đổi động ứng ( ngừng động tác , nhăn mặt, cười động tác bú)

Trẻ khoảng 3 tuổi có thẻ đùng phương pháp Peep – show, đo trở kháng, đo sức nghe khách quan ERA (evoked response audiaumetry) và BERA (Brainstem evoked response audiaumetry) ECo G (eletrocochleography).

NGHE KÉM NGHỀ NGHIỆP

Nguyên nhân của nghe kém nghề ngiệp là do tác động của tiếng ồn công nghiệp đối với tai người công nhân. Nghe kém tới mức nào đó sẽ ảnh hưởng tới giao tiếp bằng lời và ảnh hưởng tới chất lượng đời sống. Vì vậy cần phát triển các biện pháp phòng hộ : giảm tiếng ồn từ nguồn (máy, nơi làm việc…) và phòng hộ cá nhân.

Đặc điểm: Nghe kém cả hai tai cân xứng, tuy nhiên có thể một tai nghe tốt hơn tai kia.Nghe kém kiểu tiếp nhận, kiểu thần kinh giác quan. Nghe kém nghề nghiệp là loại Nghe kém  không hồi phục, khác với sự mệt mỏi về thính giác.

 

SOURCEthính học
Previous articleCẤY GHÉP ỐC TAI ĐIỆN TỬ
Next articleHIỆU QUẢ SAU CẤY ỐC TAI ĐIỆN TỬ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG